Nghiên cứu này cung cấp các dẫn liệu hình thái học về nòng nọc của loài Cóc mày sapa Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937) dựa trên các mẫu vật thu thập tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa. Nòng nọc của loài tại khu vực này có các đặc điểm hình thái đặc trưng như: kích thước cơ thể khá lớn, thân hình trụ, hơi rộng hơn cao, mắt nhỏ, cơ đuôi dày và khỏe, mút đuôi tù; lỗ thở đơn, nằm bên trái, vị trí gần hậu môn hơn mút mõm. Miệng hướng xuống dưới, có một hàng gai thịt, bao hàm dày, khỏe và có khía răng cưa. Công thức răng sừng được xác định là I(5+5)-(8+8)/(5+5)-(8+8)I. So với mẫu nòng nọc thu tại Vườn quốc gia Bạch Mã, mẫu ở Pù Luông có tỷ lệ khoảng cách gian ổ mắt/gian mũi lớn hơn; số lượng hàng răng sừng ở môi trên và môi dưới có biên độ dao động rộng hơn, đều nằm trong khoảng (5+5) đến (8+8). Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa chiều dài thân với sự phát triển của chi sau, sự hình thành và biến mất của lỗ thở và gốc đuôi; cũng như giữa...
Nghiên cứu này cung cấp các dẫn liệu hình thái học về nòng nọc của loài Cóc mày sapa Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937) dựa trên các mẫu vật thu thập tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa. Nòng nọc của loài tại khu vực này có các đặc điểm hình thái đặc trưng như: kích thước cơ thể khá lớn, thân hình trụ, hơi rộng hơn cao, mắt nhỏ, cơ đuôi dày và khỏe, mút đuôi tù; lỗ thở đơn, nằm bên trái, vị trí gần hậu môn hơn mút mõm. Miệng hướng xuống dưới, có một hàng gai thịt, bao hàm dày, khỏe và có khía răng cưa. Công thức răng sừng được xác định là I(5+5)-(8+8)/(5+5)-(8+8)I. So với mẫu nòng nọc thu tại Vườn quốc gia Bạch Mã, mẫu ở Pù Luông có tỷ lệ khoảng cách gian ổ mắt/gian mũi lớn hơn; số lượng hàng răng sừng ở môi trên và môi dưới có biên độ dao động rộng hơn, đều nằm trong khoảng (5+5) đến (8+8). Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa chiều dài thân với sự phát triển của chi sau, sự hình thành và biến mất của lỗ thở và gốc đuôi; cũng như giữa chiều rộng và chiều cao thân.