no-2

Sử dụng dấu ấn miễn dịch trong việc định typ ung thư biểu mô tuyến vú

Tác giả:
Nguyễn Thị Giang An
Trang:
100
Lượt xem:
532
Số trong tạp chí:
7/7
Lượt tải:
226
Ung thư vú (UTV) là một trong những loại ung thư chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và đa dạng về thể loại. Bởi thế, rất khó xác định được phát đồ điều trị cụ thể. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch là sự kết hợp giữa miễn dịch và mô học.Thành tựu của nó đã giúp bác sĩ xác định được các thụ thể đặc trưng trên bề mặt tế bào ung thư. Đây chính là cơ sở để hướng phác đồ điều trị phù hợp và tiên lượng cho bệnh nhân. Kết quả khảo sát sát trên 75 mô bệnh phẩm cho thấy có sự đa dạng trong thể loại ung thư biểu mô tuyến vú nhưng phổ biến là thể lòng ống thâm nhập chiếm73,3%. Sử dụng các maker miễn dịch trên các mô bệnh phẩm này, kết quả sự biểu hiện của các marker ER, PR và Her 2/neu lần lượt là 29,2%, 52% và 22,7%. Phân loại ung thư vú theo bộ ba marker cho thấy, tỷ lệ bộ ba ER/PR+HER2- chiếm 24%. Nhóm ER-/PR+ HER2- chiếm 18,7%. Nhóm ER+/PR+HER2+, nhóm ER-/PR+HER2+ và nhóm ER-PR+ Her2+ đều chiếm 12%. Nhóm ER-/PR-HER2+HER2+ chiếm 8%, Bên cạnh đó xuất hiện nhóm mà cả 3 marker đều âm tính chiếm 22,7%. Estrogene và...
Ung thư vú (UTV) là một trong những loại ung thư chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và đa dạng về thể loại. Bởi thế, rất khó xác định được phát đồ điều trị cụ thể. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch là sự kết hợp giữa miễn dịch và mô học.Thành tựu của nó đã giúp bác sĩ xác định được các thụ thể đặc trưng trên bề mặt tế bào ung thư. Đây chính là cơ sở để hướng phác đồ điều trị phù hợp và tiên lượng cho bệnh nhân. Kết quả khảo sát sát trên 75 mô bệnh phẩm cho thấy có sự đa dạng trong thể loại ung thư biểu mô tuyến vú nhưng phổ biến là thể lòng ống thâm nhập chiếm73,3%. Sử dụng các maker miễn dịch trên các mô bệnh phẩm này, kết quả sự biểu hiện của các marker ER, PR và Her 2/neu lần lượt là 29,2%, 52% và 22,7%. Phân loại ung thư vú theo bộ ba marker cho thấy, tỷ lệ bộ ba ER/PR+HER2- chiếm 24%. Nhóm ER-/PR+ HER2- chiếm 18,7%. Nhóm ER+/PR+HER2+, nhóm ER-/PR+HER2+ và nhóm ER-PR+ Her2+ đều chiếm 12%. Nhóm ER-/PR-HER2+HER2+ chiếm 8%, Bên cạnh đó xuất hiện nhóm mà cả 3 marker đều âm tính chiếm 22,7%. Estrogene và progesterone có mối tương quan thuận vừa với nhau ( 0< r=0,445 < 0,5; p < 0,05). Her-2/neu biểu hiện với những khối u có ER âm tính nhưng chưa có ý nghĩa về mặt thống kê với p>0,05 (tương quan thuận nghịch với r = -0,016).
Tin liên quan

Tạp chí khoa học Trường Đại học Vinh

Vinh University journal of science (VUJS)

ISSN: 1859 - 2228

Cơ quan chủ quản: Trường Đại học Vinh

  • Địa chỉ: 182 Lê Duẩn - Thành Phố Vinh - tỉnh Nghệ An
  • Điện thoại: (0238)3855.452 - Fax: (0238)3855.269
  • Email: vinhuni@vinhuni.edu.vn
  • Website: https://vinhuni.edu.vn

 

Giấy phép xuất bản tạp chí: 163/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 10/5/2023

Giấy phép truy cập mở: Creative Commons CC BY NC 4.0

 

LIÊN HỆ

Tổng biên tập: PGS.TS. Trần Bá Tiến 
Email: tientb@vinhuni.edu.vn

Phó Tổng biên tập: TS. Phan Văn Tiến
Email: vantientkxd@vinhuni.edu.vn

Thư ký tòa soạn: TS. Đỗ Mai Trang
Email: domaitrang@vinhuni.edu.vn

Ban thư ký và trị sự: ThS. Lê Tuấn Dũng, TS. Lê Thanh Nga

  • Địa chỉ Toà soạn: Tầng 4, Tòa nhà Điều hành, Số 182 Lê Duẩn, TP. Vinh, Nghệ An, Việt Nam
  • Điện thoại: (0238)3.856.700 | Hotline: 0973.856.700
  • Email: editors@vujs.vn
  • Website: https://vujs.vn

img